x

3 NGHI THỨC CƯỚI HỎI CHUẨN NHẤT CỦA NGƯỜI VIỆT

Ngày đăng: 21-03-2021

Những tục trước khi tổ chức lễ thành hôn người Việt

Trong phong tục cưới hỏi truyền thống của Việt Nam, thì cô dâu, chú rể Việt Nam sẽ phải trải qua ba nghi lễ chính rất quan trọng trong hôn nhân không thể bỏ qua. Theo thứ tự là lễ dạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ thành hôn. Lễ Dạm Ngõ là xem mặt hay lễ chạm ngõ là một nghi lễ trong phong tục hôn nhân của người Việt. Lễ này nhằm chính thức hóa quan hệ hôn nhân của hai gia đình.

Lễ dạm ngõ

Lễ dạm ngõ ngày nay là buổi gặp gỡ giữa hai gia đình. Nhà trai xin đến nhà gái đặt vấn đề chính thức cho đôi nam nữ được tìm hiểu nhau một cách kỹ càng hơn trước khi đi đến quyết định hôn nhân. Buổi lễ này, không cần vai trò hẹn trước của người mối, kể cả những trường hợp yêu nhau nhờ mai mối, không cần lễ vật rườm rà.

Về bản chất, lễ này chỉ là một ứng xử văn hóa, thông qua đó hai gia đình biết cụ thể về nhau hơn như gia cảnh, gia phong, từ đó dẫn tới quyết định tiếp tục hay không quan hệ hôn nhân của hai gia đình. 

Lễ vật của lễ dạm ngõ theo truyền thống rất đơn giản: một cơi trầu và cau, phủ vải nhiễu đỏ, hình thức tương tự như tráp đón dâu, ngoài ra, có thể thêm lẵng hoa quả, bánh kẹo tùy điều kiện. Thường ở miền Bắc, số lượng mỗi loại lễ vật phải là chẵn, ví dụ hai gói chè, hai chục cau, hai chục lá trầu.

Ý nghĩa lễ dạm ngõ

Nếu bỏ qua lễ này mà đi thẳng vào lễ ăn hỏi thì mọi việc sẽ bị cảm thấy đường đột, ngang tắt, không có khởi đầu. Vì thế, tuy không phải là một lễ trọng nhưng lại là một lễ không thể thiếu trong tiến trình hôn lễ. Hơn nữa, lễ này không tốn kém lễ vật chỉ có trầu cau, nhưng biểu thị được bản sắc văn hóa dân tộc, văn hoá trầu cau thì việc bỏ qua lễ này là điều không hợp lý. Đối với lễ này, thường người Việt Nam vẫn tiến hành theo khuôn mẫu cổ truyền.

Phạm vi, thành phần tham dự 

Lễ dạm ngõ là buổi lễ nhỏ trong phạm vi gia đình, không cần rườm rà nên thành phần chủ yếu là người thân thiết. Thành phần tham dự bao gồm: Nhà trai có bố mẹ nhà trai, chú rể, họ hàng ruột thịt trong gia đình như ông bà, cô bác. Nhà gái là bố mẹ nhà gái, cô dâu, có thể có thêm người thân ruột thịt trong gia đình tham dự. Cũng tùy vào điều kiện và văn hóa từng nhà, lễ dạm ngõ tại nhiều gia đình chỉ có cha mẹ hai bên gặp gỡ nhau và đôi uyên ương. Ngoài ra, đôi bạn trẻ có thể mời thêm một số bạn bè thân tới dự. 

Người tham dự lễ dạm ngõ không nhất thiết phải mặc vest, áo dài mà chỉ cần trang phục lịch sự. Đôi bạn trẻ cũng không cần đóng bộ như ngày ăn hỏi hoặc đón dâu. Cô dâu có thể diện váy ngắn, chú rể mặc quần âu, áo sơ mi đơn giản.

Những hoạt động chính

Tới ngày giờ đã định cho lễ dạm ngõ, nhà trai tới nhà gái tặng lễ vật, thưa chuyện, tỏ ý muốn để đôi bạn trẻ chính thức tìm hiểu nhau và có kế hoạch tiến tới hôn nhân. Sau thời gian chuyện trò, cô dâu chú rể tương lai được cha mẹ nhà gái đưa lên thắp hương và dâng lễ vật lên bàn thờ tổ tiên. 

Đa số các gia đình hiện nay coi ngày dạm ngõ là buổi gặp gỡ thân mật, không đặt nặng thủ tục nên trình tự không quá nghiêm ngặt. Nhiều phụ huynh cẩn thận còn xem trước ngày giờ, nhiều nhà khác lại chọn ngày dạm ngõ tùy vào thời gian rảnh của cả hai gia đình, chủ yếu là cuối tuần.

Cô dâu chú rể cũng cần chuẩn bị tinh thần là người gắn kết gia đình hai nhà. Đôi uyên ương cần tìm hiểu trước một số tính cách, nết ăn ở của hai gia đình và chia sẻ những hiểu biết này với bố mẹ trước ngày dạm ngõ để buổi lễ diễn ra suôn sẻ. Cô dâu chú rể nên chủ động biến buổi chạm ngõ của hai nhà thành dịp gặp gỡ thân tình, vui vẻ để hai gia đình có mối quan hệ thân tình, gắn bó về sau.

Sau khi buổi gặp gỡ kết thúc trong lễ dạm ngõ, nhà gái có thể làm cơm thiết đãi nhà trai. Nếu không có thời gian và điều kiện, nhà gái có thể bỏ qua việc mời cơm này. 

Lễ ăn hỏi

Lễ ăn hỏi còn được gọi là lễ đính hôn, là một nghi thức trong phong tục hôn nhân truyền thống của người Việt. Đây là sự thông báo chính thức về việc hứa gả giữa hai họ. Là giai đoạn quan trọng trong quan hệ hôn nhân. Cô gái trở thành “vợ sắp cưới” của chàng trai. Chàng trai sau khi mang lễ vật đến nhà gái là đã chính thức xin được nhận làm rể của nhà gái và tập gọi bố mẹ xưng con. Trong lễ ăn hỏi, nhà trai mang lễ vật tới nhà gái. Nhà gái nhận lễ ăn hỏi tức là chính danh công nhận sự gả con gái cho nhà trai. Kể từ ngày ăn hỏi, đôi trai gái có thể coi là đôi vợ chồng chưa cưới, chỉ còn chờ ngày cưới để công bố với hai họ.

Thành phần tham gia

Nhà trai: Chú rể, bố mẹ, ông bà, gia đình,bạn bè và một số thanh niên chưa vợ bưng mâm quả (hoặc bê tráp). Thường thì người bê tráp là nữ nhưng do mâm quả bây giờ khá nặng nên có thể thay thế bằng nam. Số người bê tráp là số lẻ 3, 5, 7, 9 hoặc 11.

Nhà gái: Cô dâu, bố mẹ, ông bà, gia đình và một số nữ chưa chồng để đón lễ ăn hỏi, số nữ đón lễ vật tương ứng với số nam bưng mâm.

Đồ lễ cần chuẩn bị

Trầu, cau, bánh cốm, mứt sen, rượu, chè, thuốc lá, bánh phu thê, bánh đậu xanh, lợn sữa quay, tiền dẫn cưới,… Những gia đình xưa thường dùng bánh cặp nghĩa là gồm hai thứ bánh tượng trưng cho âm dương. Những cặp bánh thường dùng trong lễ ăn hỏi là bánh phu thê và bánh cốm. Bánh phu thê tượng trưng cho Dương, bánh cốm tượng trưng cho Âm. Hoặc bánh chưng và bánh dày – bánh chưng vuông là Âm, bánh dày tròn là Dương. Lễ ăn hỏi đều được đựng trong hộp giấy màu đỏ hoặc bọc trong giấy đỏ, màu đỏ chỉ sự vui mừng. Cũng có gia đình thay vì các thứ bánh trên, dùng xôi gấc và lợn quay.

Đó là những lễ vật tối thiểu theo tục lệ cổ truyền. Chất lượng và số lượng thêm bớt tùy thuộc năng lực kinh tế gia đình. Phong tục xưa thường có: lợn sữa quay, có thể có một chiếc nhẫn, một dây chuyền hay bông hoa tai đính hôn. Số lượng lễ vật nhất thiết phải là số chẵn. bội số của 2, tượng trưng cho có đôi có lứa. Nhưng lễ vật đó lại được xếp trong số lẻ của tráp, số lẻ tượng trưng cho sự phát triển.

Lễ vật dẫn cưới thể hiện lòng biết ơn của nhà trai đối với công ơn dưỡng dục của cha mẹ cô gái. Nói theo cách hiểu xưa quan niệm, nhà trai bỗng dưng được thêm người, còn nhà gái thì ngược lại, con gái là con người ta. Mặt khác, lễ vật cũng biểu thị được sự quý mến, tôn trọng của nhà trai đối với cô dâu tương lai.

Trong một chừng mực nào đó, đồ dẫn cưới thể hiện thiện ý của nhà trai. Thành ý xin đóng góp một phần vật chất để nhà gái giảm bớt chi phí cho hôn sự. Tuy nhiên, điều này ngày nay càng lúc càng trở nên mờ nhạt xét về vai trò, vì dễ dẫn đến cảm giác về sự gả bán con, thách cưới.

Các thủ tục diễn ra trong ngày ăn hỏi

Rước lễ vật

Tất cả các lễ vật phải được sắp xếp gọn gàng và thẩm mỹ. Và nhất thiết phải được bày vào quả sơn son thếp vàng (hay mâm đồng đánh bóng, phủ vải đỏ). Có như thế mới nhấn mạnh được tính biểu trưng của lễ vật. Xưa, người đội lễ phải khăn áo chỉnh tề, thắt dây lưng đỏ. Nay, các cô gái đội lễ đã có áo dài đỏ thay thế nên không cần phải dùng thắt lưng đỏ nữa. Dù dùng phương tiện đi lại là: ô tô, xích lô, xe máy, hay đi bộ thì đoàn ăn hỏi cũng nên dừng lại cách nhà gái khoảng l00 m, sắp xếp đội hình, rồi mới đội lễ vào nhà gái. Đây thực sự là một hình thái văn hóa dân tộc.

Vì đây là một lễ trọng nên nhà gái phải chuẩn bị chu đáo hơn lễ chạm mặt. Tuy nhiên, do nội dung chủ yếu của lễ này là sự bàn bạc cụ thể, chính thức của hai gia đình về việc chuẩn bị lễ cưới, nên nhà gái không bày tiệc mặn mà chỉ bày tiệc trà. Ngày nay hầu hết các gia đình gái đều chuẩn bị tiệc mặn để thết đãi gia đình trai mong tạo hòa khí gắn bó và hàn huyên. Nghi thức trao nhận lễ vật cũng nên trở thành nghi thức bắt buộc.

Cô dâu phải ngồi trong phòng cho đến khi nào chú rể vào đón hoặc cha mẹ gọi mới ra. Ra mắt tổ tiên bằng cách thắp hương lên bàn thờ. Sau đó cô dâu sẽ cầm ấm trà đi từng bàn để rót nước mời khách.

Tại nhà gái nhận lễ rồi đặt một phần lên bàn thờ gia tiên. Khi lễ ăn hỏi xong, bánh trái, cau, chè được nhà gái chuyển lại cho nhà trai một ít, còn nhà gái dùng để chia cho họ hàng và người thân. Đối với cau thì phải xé chứ không được dùng dao để cắt. Khi nhà trai nhận lại tráp để bê về thì phải để ngửa, không được úp tráp lại.

Biếu trầu: Xưa, sau lễ ăn hỏi, nhà gái dùng các lễ vật nhà trai đã đưa để chia ra từng gói nhỏ để làm quà biếu cho họ hàng, bè bạn, xóm giềng,… Ý nghĩa của tục này là sự loan báo cô gái có nơi có chỗ.

Trong việc chia bánh trái, cau, chè cau phải chia theo số chẵn, nhưng kiêng chia hai quả, nghĩa là mỗi nơi từ bốn quả cau, bốn lá trầu trở lên. Con số chẵn là số dương, số lẻ là số âm dùng trong việc cúng lễ.

Hiện nay, cũng chia bánh trái, kèm theo những tấm thiếp ai họ báo tin đính hôn của đôi trẻ. Nếu ngày nghênh hôn không xa ngày hỏi, trong thiếp sẽ ghi rõ lễ cử hành vào ngày nào. Trong trường hợp này có khi cùng với thiếp “báo hỷ” lại có thiếp mời tiệc cưới.

Trang phục cho cô dâu thường dùng bộ áo dài, vừa có thể mặc trong lễ cưới, vừa có thể mặc ở những dịp lễ hội sau này. Có thể sắm cho cô dâu tương lai những đồ trang sức sau: xuyến, vòng, hoa tai. Chú rể mặc comple, cà vạt.

Nhà gái thường nhờ các cô gái trong họ hoặc bạn bè chia giúp. Khi nhà trai dẫn lễ ăn hỏi tới nhà gái, nhà gái thường làm cơm thiết đãi. Sau lễ ăn hỏi đôi bên kể là giao kết gắn bó với nhau rồi. Tuy vậy ngày xưa các cặp vị hôn phu và hôn thê cũng không được phép gặp nhau, trừ trường hợp đặc biệt lắm đôi bên cha mẹ mới cho phép. Phong tục ngày nay đổi khác, sau lễ ăn hỏi đôi trai gái thường gặp nhau luôn. Từ lễ ăn hỏi đến lễ cưới, xưa kia có khi hàng bốn năm năm, nhưng ngày nay thời gian đó thường được rút ngắn, có khi chỉ vài ba ngày.

Chính ngày xưa, các cụ vẫn khuyên các chàng trai đã hỏi vợ thì cưới ngay để tránh sự bất trắc của thời gian. Ca dao có câu: Cưới vợ thì cưới liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha. Lễ ăn hỏi xong đôi bên trai gái chờ lễ cưới là xong nhưng theo tục xưa, có nhiều nhà gái đã nhận ăn lễ hỏi của nhà trai cũng không cho cử hành lễ nghênh hôn sớm. Có khi vì cô gái còn quá nhỏ tuổi, có khi vì cha mẹ thương con vì không muốn con sớm phải về nhà chồng.

Xem thêm: Nghi thức nhận con nuôi

Đánh giá post

Chat ngay